Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 12 tháng 1, 2015

Nạn đói năm 45 trong ký ức người còn sống


IMG-5901-9322-1420799025.jpg
Ông Tô Minh Thuyết kể rằng: "Bố tôi mất vào tháng tư năm đói. Mỗi lần làm giỗ cho ông cụ, nhìn đàn con cháu quây quần, mâm cơm đầy đủ là lại chứa chan nước mắt". Ảnh: Hoàng Phương.

Ông Tô Minh Thuyết (80 tuổi, người Tây Lương, Tiền Hải, Thái Bình) bị bệnh teo não. Rất nhiều chuyện đã quên nhưng ký ức về nạn đói mỗi lần nhắc đến ông lại rùng mình, buông 
câu "chuyện xưa rồi nhưng cứ nhớ đến là lại tủi thân". Nạn đói ập về Thái Bình vào tháng 10/1944. Mẹ ông đi thăm đồng về khóc lóc nói với chị cả: "Khéo cả làng chết đói mất thôi con ơi".
5-3340-1420799025.jpg
Cụ Trình Thị Chự (102 tuổi) là người duy nhất trong gia đình 9 người sống sót qua nạn đói năm 1945 ở làng Thủ Phú, xã Quảng Đại, (Quảng Xương, Thanh Hóa) . Ảnh: Lê Hoàng.
IMG-5923-4686-1420799025.jpg
Vợ chồng ông Nguyễn Văn Ngô (102 tuổi) và bà Nguyễn Thị Sót (87 tuổi) là những người sống sót qua nạn đói ở làng Trung Tiến, xã Tây Lương (Tiền Hải, Thái Bình). Ảnh: Hoàng Phương.
Lúa trên cánh đồng thôn Thượng và các thôn khác trắng như cánh cò, không tìm thấy hạt mẩy. "Không ai biết lúa bị bệnh gì, dân chỉ kháo nhau là do trời làm. Không có thóc nộp tô, dân kéo đến nhà giàu để vay nhưng họ không cho, để dành thóc bán cho Nhật. Mẹ tôi phải đội thúng bát đĩa cổ ra nhà địa chủ Lý Sách đổi vài cân thóc. Sau nhà giàu không mua nữa, bà đội thúng đi về giữa trời mưa mấy lượt mà không có gì cho 6 chị em tôi ăn", ông Thuyết kể.
Người ta ăn tất cả những gì có thể. Cậu bé Thuyết mới 10 tuổi vẫn nhớ cảnh dân làng đổ ra cánh đồng nhổ rau dền, rau sam, lá bắp cải già, thứ gì ăn được là nhặt về hết. Rồi người ta giết cả chó mèo vì không nuôi nổi. Có nhà trong làng bán rẻ trâu không ai mua, phải mổ thịt ăn dần, vừa ăn vừa khóc.
"Ăn hết rau cỏ, vật nuôi trong nhà, cả làng lùng chuột đồng làm thịt, nướng vội nướng vàng rồi tranh nhau xé ăn. Họ vật vờ ở bờ bụi đào củ dong, ráy, củ chuối, băm ra cho vào nồi đất, đun sôi bốc ăn ngon lành. Nhà nào có cây chuối, đu đủ thì đêm canh như canh miếu thờ vì sợ bị trộm. Trong làng, có đám đánh nhau mẻ đầu vì tranh giành củ chuối. Khi củ chuối hết là bắt đầu có người chết", ông Thuyết kể.
Vì đói, ở Tồn Thành (Giao Thủy, Nam Định), người ta cắt cỏ vực đốt lấy hạt, giã vỏ lấy nhân nấu cháo ăn. Được ít ngày, cỏ vực không còn một ngọn, dân đào khoai ngứa, thứ chỉ dành cho lợn. "Ăn xong ngứa như rách cả cổ, nhưng không ăn thì chết. Ngẫm lại, con người khi đó còn không được như con lợn, con gà bây giờ", ông Vũ Viết Bật (82 tuổi) nhớ lại.
Dải đất bắc miền Trung ít ruộng, dân cư chỉ sản xuất một vụ lúa, sống chủ yếu bằng hoa màu và đánh bắt cá. Thôn Thủ Phú thuộc làng Phú Xá xưa (nay là xã Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa) từ xưa chỉ có làm nghề đánh bắt cá biển, đổi nông sản với các vùng khác. Tết Ất Dậu là thời điểm mở màn cho những cái chết trong thôn. Trong trí nhớ của ông Nguyễn Xuân Tài thì bà Sến, người xóm trên là nạn nhân đầu tiên. "Bà này chết rục bên gốc chuối sau nhà, thân hình khô quắp chỉ còn lại nắm xương. Những tháng sau đó, người dân Thủ Phú chết như ngả rạ. Trong làng ngoài ngõ, bên gốc đa, sân đình, bờ đồng, xó chợ... đâu cũng thấy thây ma nằm ngổn ngang", cụ ông 92 tuổi cho hay.
Người bị choáng đâm đầu xuống sông, người nằm bên bờ ruộng khi miệng còn ngậm cỏ, người chết trong nhà không ai biết. Ban đầu, dân làng bó chiếu, chăn đem chôn. Về sau những tấm mành lưới, cánh buồm để ra khơi trở thành "quan tài" tạm, xác chết được kéo ra bãi tha ma phía bờ biển. Nghĩa địa Cồn Mả Quán chi chít nấm mồ lấp vội. 
Thôn Thủ Phú có khoảng 40 hộ chết gần hết cả nhà, như nhà ông Minh Hinh, hai vợ chồng với 7 con trai đều ra đi. Gia đình ông Biện Bang, Bút Lợi, Sệnh Cày... cũng vậy. Thôn này trở thành nơi có nhiều người chết đói nhất xứ Thanh. "Một buổi chiều, có người ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc, chạy sang thì cả 7-8 người nhà ông Minh Hinh nằm chết co mỗi người một xó, chuột bọ, côn trùng bò lổn nhổn. Dân làng phải kéo sập mái nhà châm lửa đốt rồi lấp đất vùi xác tại chỗ", cụ Tài kể lại.
Người già nhất thôn Thủ Phú từng chứng kiến nạn đói Ất Dậu là cụ Trình Thị Chự (102 tuổi). Gia đình cụ Chự có 9 người thì mất 8 (gồm cha mẹ và 6 người con, 3 gái, 3 trai). "Trong ba ngày, tôi phải chứng kiến 8 người thân qua đời. Tự tay tôi lần lượt kéo xác cha mẹ và những người anh em ra đồng. Không có cuốc thuổng, tôi dùng tay bới đất. Ướm chừng như đã lút thân người, tôi chôn vội họ rồi lại tất tả chạy về lê xác người khác", cụ Chự rưng rưng.
Sống gần trọn kiếp người, cái chết vì đói của những người thân luôn ám ảnh cụ bà Nguyễn Thị Sót (87 tuổi, người xã Tây Lương, Tiền Hải, Thái Bình). "Nhà tôi có 8 người thì 5 người chết. Vợ chồng anh cả chết còng queo ở xó nhà, đứa cháu lớn đói quá nằm vạ vật ở góc bếp. Tôi lay nó tỉnh dậy, nhích mi mắt không thấy gì ăn rồi lại nhắm mắt, từ sáng đến trưa thì chết. Bố tôi chết ở dưới thuyền nhiều ngày, khi phát hiện ra thì đã đầy ruồi bọ, anh trai thứ chết ở đâu không tìm thấy xác", bà Sót kể, nước mắt chực trào ra.
"Năm ấy tôi mới 17 tuổi, đương thanh xuân, thế mà chỉ còn da bọc xương. Nhiều người đói rạc cả thân xác, không phân biệt nổi đàn bà hay đàn ông. Người ta cướp cả manh quần áo vá chằng vá đụp trên thi thể người đàn bà có chửa sắp sinh để đổi lấy miếng bánh đúc ăn", bà cụ kể tiếp.
Dân gian có câu "Thái Bình chết bảy còn ba" để hình dung về thảm cảnh của quê lúa năm 1945. Xóm Trại của xã Tây Lương gần như bị xóa sổ, 130 nhân khẩu thì có 103 người chết. Gia đình ông Tô Nuôi có 4 người, mình ông được cứu sống vì đi làm con nuôi. Cả dòng họ ông 35 người thì chết đói 31. Nhà cụ Hoàng Phác có bốn thế hệ sống với nhau 31 người thì chết đói 26 người, 2 người đến nay không biết tung tích.
Nhà khá giả cũng không thoát nổi. Ở thôn Hiên, xã Tây Lương, người dân còn kể lại câu chuyện gia đình ông Nguyễn Văn Tư chết đói đặc biệt. Khi nhiều người mang đồ thờ, bát đĩa quý trong nhà đi bán giá rẻ, ông đem thóc đổi lấy đồ, sau hết thóc xoay không kịp rồi cũng chết. Hay gia đình ông Nguyễn Văn Lý làm tuần đinh, nhà có 2 trâu, 3 mẫu ruộng, 16 nhân khẩu thì chết mất 15 bởi mua sắm đồ đạc nhiều, không có dự phòng.
Trong trí nhớ của bà Sót khi đó, khắp làng xã người chết đói nằm co, người sống thì lê lết kiếm miếng ăn. Người không đi nổi thì ngồi vật vờ nhìn nhau. Không khí tĩnh lặng đến dị thường, không ánh lửa, không tiếng chó sủa mèo kêu, chỉ có tiếng chuột gù. Những con chuột vì ăn thịt người chết mà to béo bằng cả bắp chân. Người đói nhìn thấy không còn sức mà bắt ăn.
Tạm qua cơn đói, khi có lúa mới, nhiều người lại chết vì một bữa no"Khi được mùa, họ ăn như chưa từng được ăn. Thế rồi nhiều người lăn ra chết với tấm bụng căng tròn", cụ Nguyễn Xuân Trang (97 tuổi, thôn Thủ Phú) cho hay, có đến vài chục người trong làng chết vì một bữa no.
"Giữa trưa hè nắng oi ả. Người làng bất thần nghe tiếng khóc ré bên nhà lão Thử. Bà con chạy tới thì lão đang đánh trần nằm giãy đành đạch giữa sân với cái bụng căng lè, bên cạnh là rổ khoai lang mới luộc chưa kịp chín hết", cụ Trang thở dài.
70 năm qua, xã Tây Lương khi xưa chết đói 2/3 thì nay đã thành một vùng giàu có, thanh bình bên sông Trà Lý. Gia đình bà Sót con cháu đuề huề. Sống qua cơn tăm tối của đất trời, bà được dân làng Trung Tiến gọi là người "sống dai nhất làng" vì không ăn gì nhiều ngày mà vẫn sống.
Còn ông Thuyết đã chẳng thể nhớ nổi hương vị củ chuối, cháo cám năm xưa, nhưng mỗi độ tháng tư về, nhìn con cháu quây quần bên mâm cơm đủ đầy ngày giỗ là lại khóc. "Trải qua năm ấy, gia đình nào cũng sứt mẻ, chẳng nhà nào còn vẹn nguyên", ông nói.

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2014

Huyền thoại về rồng



Ngũ Long và những vị Thần Màu Xanh:
“Tạp Ký về Huyện Nghĩa (Ye)” từ Triều đại Nhà Thanh viết như sau: Vào năm 1503 sau Công Nguyên (Triều Minh, năm thứ 16 đời Hồng Di), năm con rồng đã bay lượn trên không trung khoảng 10 lý (3 dặm) phía bắc huyện Nghĩa, tỉnh Hà Nam. Sau một thời gian lâu ở trên cao, chúng hạ xuống mặt đất, và không thể bay lên lại được nữa. Mây kéo đến đầy trời và mặt biển bị khuấy tung lên. Một vị thần trong trang phục màu xanh từ trên trời đáp xuống và ngay lập tức được vây quanh bởi những con rồng đã rớt xuống. Một lúc sau, mây tản hết và biển trở nên yên tĩnh. Năm con rồng vẫn chưa thể bay lên. Bấy giờ, một vị thần màu xanh khác xuất hiện, và những con rồng vây quanh ông ta. Đột nhiên bầu trời trở nên tối mịt. Những đám mây đen lớn xuất hiện. Cuối cùng khi bầu trời sáng trở lại, hai vị thần và 5 con rồng đã bay đi.

Những con Rồng trắng và những vị Thần Màu Tía:
“Ký sự về Thiên triều Gia Tĩnh, Phần Những Hiện tượng Kỳ lạ và Hiếm thấy” cũng có một câu chuyện tương tự về huyện Nghĩa. Vào tháng 10 năm 1588 sau Công Nguyên, một con rồng trắng đã nổi lên trên Hồ Bình thuộc huyện Bình Hồ, tỉnh Triết Giang. Nó đã bay lượn trên mặt hồ, chiếu sáng một nửa bầu trời với ánh sáng đỏ. Chứng kiến của Shen Maoxiao, một vị quan chép sử cho vương triều, đã nhìn thấy một vị thần với trang phục màu tía và một cái mũ bằng vàng, đứng trên cao chừng 30m, giữa những cái sừng của con rồng. Vị thần này cầm một vật có hình cây kiếm. Ở đó xuất hiện một quả cầu ánh sáng lớn như một cái đấu (một dụng cụ đo lường hình thang ở Trung Quốc) ở bên dưới cái đầu của con rồng.

Bạch Long trên Sông Hoàng Phố:
“Ký sự về Thiên triều Tống Giang, Phần những Hiện tượng Kỳ lạ và Hiếm thấy” đã ghi chép một chứng kiến xảy ra 20 năm sau sự kiện con rồng trắng được trông thấy ở huyện Bình Hồ. Vào tháng 7 năm 1608 sau Công Nguyên, một con rồng trắng tương tự như con rồng xuất hiện trên Hồ Bình đã được nhìn thấy trên Sông Hoàng Phố ở huyện Tống Giang, Thượng Hải. Cũng có môt vị thần đứng trên đầu con rồng.

Rồng ở Lâu Đài Văn Minh:
“Ký sự về Hậu Hán Triều, Phần Ngũ tố” trích dẫn sau này của ‘Ký sự về huyện Lạc Dương ? Phần Hiện tượng Kỳ lạ” , đã chép rằng một con rồng trông thấy trên hoàng cung. Lưu Hồng, Hoàng đế của Vương Triều Đông hán, đã xây dựng thủ đô của mình gần huyện Lạc Dương, Tỉnh Hà Nam ngày nay; Cung điện Văn Minh có thể là nơi ông cư ngụ. Vào ngày 1 tháng 7 năm 178 sau Công Nguyên, một vật đen khổng lồ rớt từ trời xuống vườn đông của cung điện Văn Minh. Vật thể có hình tròn và giống như mái che của xe ngựa ngày xưa. Nó dài 20 m, và lướt đi nhanh chóng, phát ra những ánh sáng màu sắc. Vật thể có một cái đầu, nhưng không có chân và đuôi, Nó trông giống một con rồng, nhưng có thể là không phải.

“Biên sử của Triều đại nhà Nguyên? Ký sự về Ngũ Tố” viết rằng có một con rồng xuất hiện gần Long Sơn ở huyện Lâm Tùng, Tỉnh Sơn Đông vào tháng 8 năm 1190. Không may, sự xuất hiện của nó đã không được ghi chép. Con rồng có thể mang một tảng đã lớn nặng 0, 5 tấn bay lên không trung.

Vào năm thứ 24 của Cát An thuộc triều Đông Hán, một con rồng vàng xuất hiện trên Sông Trì Thuỷ của huyện Vũ Dương, và nằm ở đó trong suốt 9 ngày và cuối cùng thì rời đi. Một đền thờ được xây dựng và một bia đá được dựng lên trong đền thờ để ghi danh sự xuất hiện của con rồng.

Vào tháng 4, năm thứ nhất của Vĩnh Hà, Triều Đông Tấn (345 Sau Công Nguyên), hai con rồng, một con màu trắng và một con màu đen, xuất hiện ở Long Sơn. Mộ Dung, Hoàng đế nước Yên, đem các quan trong triều đến một ngọn núi và tổ chức một lễ tế cách xa chỗ 2 con rồng 200 dặm.

Những cuốn sách lịch sử địa phương từ Triều Minh và Triều Thanh cũng có những dấu hiệu của những con rồng. Theo “Ký sự về Thiên triều Lâm An, ” năm thứ 4 Chongzhen (1631 AD), một con rồng lớn đã được nhìn thấy trên Hồ Kỳ Long, đông nam huyện Shiping, tỉnh Yunan, Ghi chép đã viết: “râu, chân, và vảy của con rồng nổi trên mặt nước, và con rồng dài khoảng vài chục mét.” Rồng có thể đã xuất hiện nhiều hơn một lần ở Long Sơn (Núi Rồng) và Hồ Kỳ Long (Hồ Rồng kỳ lạ), điều này giải thích cho việc đặt tên cho những địa danh này.

“Ký sự Bổ sung của Triều đại Nhà Đường” đã ghi chép rằng một ngày trong năm cuối của Xiantong, một con rồng đen đã rơi xuống mặt đất trong vùng lãnh thổ của tỉnh Tongcheng, và chết ở đó vì một vết thương trên cổ. Chiều dài đầy đủ của con rồng đo được là 30m, trong đó 15m là đuôi. Cái đuôi hình phẳng. Vảy của nó như vảy cá. Trên đầu có 2 cái sừng. Râu của nó mọc bên cạnh miệng dài khoảng 6m. Chân của nó, mọc ra từ dưới bụng, có một cái vảy màu đỏ che phủ.

“Thất Kinh Thư” của Long Anh chép rằng một ngày trong năm cuối của Thành Hoá, Minh Triều, một con rồng rơi xuống trên bãi biển của Huyện Tân Thuỷ, Tỉnh Giang Đông. Nó đã bị những người dân chài địa phương đánh tới chết. Con rồng cao như một người lớn, và dài hàng chục mét. Nó trông rất giống con rồng trong những bức tranh cổ chỉ trừ cái bụng của nó màu đỏ.

Một con rồng đã chết được tìm thấy bên bờ Hồ Thái Bạch vào năm thứ 32 của Thiếu Hưng thuộc Triều đại Nam Tống (1162 sau Công Nguyên). Nó có râu dài và những cái vảy rất lớn. Cái lưng màu đen và cái bụng màu trắng. Tay của nó mọc ra từ lưng, và hai cái sừng thò ra từ đầu. Nó có thể bốc mùi từ xa hàng dặm. Những người địa phương phát hiện ra nó với một mớ rối bù. Quan lại đã cho người đến làm lễ cúng tế bên cạnh nó. Tuy nhiên, sau một đêm giông bão sấm sét, con rồng đã biến mất. Chỉ có một cái mương để lại nơi nó đã nằm.

“Biên sử về Thiên triều Vĩnh Bình” chép rằng, vào mùa hè năm thứ 19 của Đạo Quang (1839 Sau Công Nguyên), một con rồng đã rớt từ trên trời xuống vùng hạ lưu con Sông Luân Hà, ở huyện Lao Đình. Con rồng nằm mệt lử, ruồi bọ vây quanh. Người dân địa phương làm một cái mái che cho nó để bảo vệ nó khỏi nắng, và phun nước lên người nó. 3 ngày sau, sau một đêm trời dông bão, con rồng đã bay đi.

Vào tháng 8 năm 1994, hàng trăm người từ Làng Chenjiayuanzi, Huyện Phù Du, phía bắc của con sông Tùng Hoà Giang vây quanh một con rồng đen nàm bên cạnh con sông. Yen Dianyuan, Một người chứng kiến vẫn còn sống, đã kể rằng con rồng dài chừng 7 mét và trông giống một con thàn lằn khổng lồ. Mặt của nó giống hệt như mặt của con rồng được vẽ trong các bức tranh cổ, với 7 hoặc 8 cái râu dày và cứng. Thân trên có đường kính khoảng một bộ. Bốn cái chân của nó đi để dấu sâu trên cát. Lớp vảy như vảy cá sấu phủ đầy thân nó. Yen Dianyuan vẫn rất băn khoăn tại sao con vật khổng lồ ấy lại trông rất giống với con rồng được vẽ trong tranh.

Vào mùa hè năm 1953, một con vật chưa được nhận biết đã rớt từ trời xuống một nơi gần phía nam Tỉnh Hà Nam. Những người tò mò đã đi bộ một quãng dài để đến xem. Theo sự miêu tả của những người chứng kiến, con rồng trông giống một con cá mập khổng lồ. Mùi thối rữa của nó thu hút vô số ruồi nhặng. Nếu nó là một con cá mập, nó phải sống dưới vùng biển sâu. Tại sao nó lại rớt từ trời xuống? Trường hợp này có thể liên quan đến những con rồng được ghi chép trong lịch sử rớt xuống từ trời.

Một con rồng xuất hiện vào ngày 31 tháng 8 năm 2000.
Thời tiết trên hầu hết các vùng của Trung Quốc năm nay rất nóng và khô với nhiệt độ lên đến 40 độ C (104 độ F), và đã dẫn đến cái chết của nhiều cây cối và đồng cỏ. Mùa màng không có màu xanh ở những nông trang rộng lớn. Chúng ta thường thấy những vụ mùa bội thu khi mùa thu đến. Nhưng năm 2000 đã không như vậy. Nhiều dòng sông khô cạn, gây ra hậu quả thiếu nước uống và lan tràn dịch bệnh. 

Người ta đã lo lắng rằng mùa hè sẽ thiếu mưa, và mùa thu sẽ thừa nước. Vào ngày 4 tháng 8, một trận mưa như trút nước xuống Ngôi làng Hắc Sơn Tử (Heishanzi), và ngôi làng được bao phủ bởi một lớp hơi nước nóng. Đột nhiên, những đám mây dày từ bầu trời đáp xuống và cuộn dọc theo trên mặt đất. Người dân trong làng vô cùng hoảng sợ, vì họ chưa bao giờ thấy một loại thời tiết như vậy trước đó. Họ nằm im trong nhà và đóng cửa lại. Có một chàng trai trẻ dũng cảm đã bước ra ngoài xem chuyện gì đang xảy ra. Anh ta đi xuyên qua và chẳng tìm thấy gì ngoài những đám mây dày đang cuồn cuộn. Anh ta tiếp tục đi, và chẳng mấy chốc anh ta đã ở ngoài rìa làng. Đột nhiên anh ta sững sờ vì nhìn thấy cảnh tượng hai con rồng, một con màu đen và một con màu trắng, nằm trên mặt đất trước mặt anh ta. Anh ta sững sờ và không thể tin vào những gì mình thấy. Anh ta dụi mắt mình bằng lưng bàn tay và véo vào cánh tay mình. Tay anh ta cảm thấy đau, vậy anh ta biết đó không phải là giấc mơ.


Chàng trai trẻ tiến đến gần hơn để xem cho rõ hai con rồng. Anh ta đã thấy rằng, những cái sừng, những cái vảy, những cái chân, và đuôi của 2 con rồng giống hệt với những con rồng trong những bức tranh truyền thống ngoại trừ những cái râu của nó ngắn hơn. Anh ta xoay mình và chạy biến về làng hết sức có thể, và la lên: “Đi xem rồng bà con ơi, đi xem những con rồng rơi từ trời xuống!” Cả làng đi ra ngoài để xem rồng. Tin tức lan rộng nhanh chóng khắp vùng. Cảnh sát, cán bộ chính quyền, chuyê
n gia, giáo sư đại học đều đến ngôi làng Hắc Sơn Tử. Nhiều người chụp được đám đông vây quanh 2 con rồng. Rồi các chuyên gia và giáo sư Đại học bắt đầu nói dông dài về các loại lý thuyết về hiện tượng, nhưng người ta không thể hiểu một từ nào về những gì họ nói. Sau đó, cảnh sát bắt đầu giải tán đám đông, để lại một vài người bảo vệ hai con rồng.

Một trận gió mạnh cuốn những đám mây đen cuộn lên cuộn xuống. Khi nó đi qua, con rồng màu trắng đã biến mất từ những đôi mắt chăm nhú nhìn của mấy người bảo vệ. Các quan chức không thể giải thích sự biến mất đó, và họ cũng thấy chán nản về con rồng màu đen vẫn nằm ở trên mặt đất. Lúc đó, một lão nông già trên 70 tuổi nói: “Tôi đã nghe những điều tương tự thế này đã xẩy ra nhiều năm trước, và người ta tưới nước cho con rồng để cho nó về nhà.” Ông đã kêu một vài người trẻ tuổi trong làng lấy chiếu và dựng một mái che cho con rồng. Rồi họ chở nước bằng xe cút kit, rồi họ phun nước lên chiếu để nước có thể chảy xuống lưng con rồng. Kết quả là, con rồng đã sống đến hôm nay.

Vũ Tống (Wusong) là một thành phố bên cạnh sườn Tây của dãy núi Trường Bạch, Đông Nam Tỉnh Cát Lâm; nó được gọi là “thành phố của Nhân Sâm”. Vào 6 giờ chiều ngày 18 tháng 9, năm 2000, một con rồng đã xuất hiện trên bầu trời của thành phố, và mọi người có thể nhìn thấy nó. Vào ngày đó, vì trời trở nên tối vào buổi chiều, một chùm ánh sáng kỳ lạ đã phóng ra từ bầu trời phía đông bắc của thành phố, và nó trở nên sáng hơn và sặc sở sắc màu. Nhiều người đã nhìn thấy ánh sáng đó và nhiều người cảm thấy như phép màu sắp xảy ra. Nó chắc chắn là – một con rồng đã lộ ra. Vào lúc đầu, cái đầu được nhìn thấy, nhưng chưa có đuôi. Cuối cùng, miệng, râu, chân, vảy đã được thấy rõ ràng. Con rồng phát ra ánh sáng chói, và nó uốn mình lên, rồi duỗi mình ra, rồi cuộn mình lại, rồi uốn mình về phía trước. Nó mở cái miệng ra, rồi đóng lại. Mọi người thất kinh và tắt tiếng trước cảnh tượng. Một vài người vẫn có thể lẩm bẩm “cuối cùng thì cũng có rồng thực”. Con rồng hiện hình cho thấy khoảng 20 phút. Hầu hết mọi người trong thành phố đều thấy nó, một vài người chứng kiến sự việc từ đầu tới cuối. Ánh sáng cuối cùng thì mờ dần và đỏ thẫm và con rồng từ từ biến mất.? Khoảng 8 giờ, một người bạn của tôi ở Vũ Tống đã gọi điện cho tôi và kể về chi tiết sự việc xuất hiện và biến mất của con rồng, và trên đây là những gì mà tôi đã chép xuống.

Định nghĩa rồng là gì:
Rồng, chữ hán là Long, chữ Phạn là Nâga, là một loài sinh vật thuộc thế giới vô hình, và cũng là một loài trong Tứ Linh: Long, Lân, Qui, Phụng (Rồng, Lân, Rùa, Phượng)
Theo thần thoại, rồng có hình dạng rất lạ kỳ: đầu rồng giống như đầu đà, sừng giống như sừng nai, cổ giống như cổ rắn, bụng giống như bụng con giao, mắt giống mắt thỏ, tai giống tai bò, chân giống chân cọp, móng giống móng chim ưng, vảy rồng giống như vảy cá ly.

Rồng là vua của loài có vảy, có tài biến hóa, làm tối được, làm sáng được, làm lớn được, làm nhỏ được, nhằm tiết xuân phân thì lên trời, nhằm tiết thu phân thì xuống biển hay xuống đất. Kinh Phật nói: "Long thường tại định, vô hữu bất định thì." Nghĩa là: Rồng thường ở vào thiền định, không có lúc nào chẳng thiền định.

Có rất nhiều loại rồng, được phân ra tùy theo màu sắc, tùy theo hình dáng đầu rồng hoặc tùy theo phận sự của nó:
I. Phân loại theo màu sắc: Có 5 loại:

• Rồng trắng: Bạch long, toàn thân màu trắng
• Rồng vàng: Huỳnh long, toàn thân màu vàng,
• Rồng xanh: Thanh long, toàn thân màu xanh sậm,
• Rồng đỏ: Xích long, toàn thân màu đỏ,
• Rồng đen: Hắc long, toàn thân màu đen.
II. Phân chia theo hình dáng: 3 loại:

• Rồng trẻ, đầu không có sừng, gọi là Ly long.
• Rồng sống được 500 năm thì mọc sừng, gọi là Cù Long.
• Rồng sống được 1000 năm trở lên thì có sừng dài và mọc thêm cánh, gọi là Ứng long.
III. Phân chia theo nhiệm vụ: có 4 loại:

• Thủ Thiên cung long: Rồng ở cõi Trời, gìn giữ Thiên cung.
• Hành võ long: Rồng làm mưa (Hành là làm, võ hay vũ là mưa). Rồng nầy có hai hạng:
o Thiện long thì làm cho mưa thuận gió hòa;
o Ác long thì làm cho mưa to, gây lũ lụt.
• Địa long: Rồng ở dưới đất sâu, làm hầm khoét hang, làm thành sông, hồ, biển.
• Phục tạng long: Rồng giữ gìn kho tàng của vua Chuyển Luân Thánh vương và các nhà phước đức lớn.
■ Tương truyền, rồng ở đáy biển, có lầu đài cung điện, có tổ chức vua, quan, quân lính. Rồng làm vua gọi là Long vương, cung điện của Long vương là Long cung, các quan của vua rồng là loài cá lớn, quân lính là các loài cá nhỏ.
Theo Truyện Phong Thần và Tây Du Ký, có Tứ Hải Long vương là 4 vị Long vương ở bốn biển:

• Đông Hải Long vương: ở biển Đông tên Ngao Quảng.
• Nam Hải Long vương: ở biển Nam tên Ngao Thuận.
• Tây Hải Long vương: ở biển Tây tên Ngao Khâm.
• Bắc Hải Long vương: ở biển Bắc tên Ngao Nhuận.
■ Cũng trong truyện Tây Du, con Bạch mã (ngựa trắng) mà Tam Tạng cỡi đi Tây phương thỉnh kinh là do một con tiểu long (rồng nhỏ) biến thành. Con tiểu long nầy vốn là Thái tử con của Bắc Hải Long vương Ngao Nhuận, phạm tội nặng, bị bắt treo lên chờ xử trảm. May nhờ Đức Quan Âm Bồ Tát đi ngang, tiểu long van xin cứu mạng. Đức Quan Âm Bồ Tát thương tình, tâu xin Thượng Đế tha chết cho tiểu long để sau nầy bắt tiểu long biến thành bạch mã, đỡ gót cho Tam Tạng thỉnh kinh. Nhờ công lao chuộc tội nầy, sau khi thỉnh kinh xong, bạch mã được biến trở lại thành rồng, trở về Long cung.

■ Long Nữ là con gái của Đệ tam Thái Tử của Nam Hải Long vương Ngao Thuận, ngày kia hóa thành con cá dạo chơi nơi mé biển, bị một ông chài bắt được, đem ra chợ bán. Đức Quan Âm Bồ Tát biết được, sai Thiện Tài đồng tử hóa ra một người thường, đi đến chợ mua con cá ấy, rồi đem xuống biển Nam thả xuống.
Nam Hải Long vương nhớ ơn Bồ Tát cứu tử cháu nội gái của mình, nên dạy Long Nữ đem cục ngọc Dạ Minh Châu đến dâng tặng Bồ Tát để Bồ Tát đọc sách ban đêm không cần đèn.
Long Nữ đến dâng ngọc xong, lòng hết sức cảm phục Bồ Tát nên xin qui y và được Bồ Tát thâu làm đệ tử .
Từ ấy, Thiện Tài đồng tử và Long Nữ luôn luôn theo bên cạnh để phụng sự Bồ Tát.

■ Trong lịch sử Việt Nam, lúc Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Lý Thái Tổ, thấy đất Hoa Lư chật hẹp không phải là nơi đóng đô, muốn dời đến La Thành. Khi nhà vua đến La Thành xem xét, vua thấy một con rồng vàng xuất hiện, từ La Thành bay thẳng lên Trời. Lý Thái Tổ cho đó là điềm lành, nên chọn La Thành làm nơi đóng đô, đổi tên lại là Thăng Long (Rồng bay lên) để kỷ niệm ngày thấy rồng vàng bay lên trời. Nhà Lý đóng đô tại Thăng Long, truyền ngôi được 9 đời, kéo dài 215 năm.
Nguồn: vietyo.

Một bài viết về đồng đen - Vũ Tá Hùng

Vì đồn thổi đồng đen có giá trị đắt hơn vàng và có thể chữa được bệnh nan y, nên người ta lừa đảo, tranh giành, thậm chí chém giết để có được thứ vàng đen đó. Thực hư chuyện này là gì?
 Truyền thuyết về đồng đen
 Truyền thuyết kể rằng: Nguyễn Minh Không - Không lộ Thiền sư, vị cao tăng đắc đạo ở Tây Trúc, được Phật truyền cho lục trí thần thông, có thể biến hóa khôn lường. Vị Thiền sư này giỏi chữa bệnh và các nghề luyện kim. Tiếng tăm của thần y Minh Không vang sang Bắc quốc. Con vua Tống Thái Tông khi đó bị bệnh nan y, nhà vua cho mời Minh Không sang chữa bệnh, ông đã nhận lệnh lên đường.
 Tương truyền khi về nước, ông dùng đồng đen lấy được đúc thành chuông Phả Lại. Số đồng đen còn lại hòa thượng đúc tượng An Nam Đại Tứ Khí (tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh và tượng Phật chùa Quỳnh Lâm). Chuông Phả Lại đúc xong, khi gióng lên tiếng kêu xa khắp thiên hạ. Lúc đó, tại cung điện Trung Hoa có tượng một con trâu đúc bằng vàng rất lớn. Theo truyền thuyết thì đồng đen chính là mẹ của vàng, nghe tiếng chuông của mẹ đồng đen gọi, con Trâu Vàng cựa mình và phóng sang Đại Việt đi tìm mẹ. Ngài Minh Không lo lắng, cho rằng nếu tiếp tục gióng chuông thì vàng từ các nước lân bang sẽ tụ về Đại Việt. Ngài bèn ném chuông xuống Hồ Tây. Tiếng chuông âm vang lần cuối, con Trâu Vàng theo mẹ nhảy xuống hồ. Từ đó Hồ Tây còn có tên gọi là hồ Kim Ngưu (Trâu Vàng).
 Ông Trương Tín Hồi, Phó ban Ban di tích phủ Tây Hồ cho biết, truyền thuyết dân gian biến hóa theo dòng chảy của cuộc đời, từ xa xưa trâu được coi là một con vật thiêng có khả năng trừ ma quái, bảo vệ dân làng. Tín ngưỡng thờ Trâu Vàng là một tín ngưỡng tích cực, phù hợp với nguyện vọng cầu mong một cuộc sống yên ổn của nhân dân xưa. Đây là truyền thuyết rất linh thiêng về đồng đen và Trâu Vàng.

 Bức tượng đồng đen Thánh Trấn Vũ, đền Quán Thánh, Hà Nội. 
"Vua" đồ cổ cũng bị lừa Ông Bùi Xuân Hải (cầu Rào, phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, TP Hải Phòng) rất am hiểu về đồ cổ nhưng cũng từng bị một quả lừa liên quan tới đồng đen.
 Thời đó, biết ông là người sành đồ cổ, buôn bán và xuất khẩu đồ cổ sang cả Trung Quốc, nhiều người đã đến giới thiệu cho ông về thứ đồ cổ lưu truyền trong dân gian còn quý hơn vàng. Một nhóm người từ Vũ Thư, Thái Bình đã tìm về Hải Phòng gặp ông để nói về mặt hàng này. Nhóm người này khoe với ông Hải rằng, thứ đồng đen mà họ tìm được mối có từ thời nhà Lý, cách đây vài trăm năm. Đó là một báu vật đối với nhiều người. 
 Họ còn nói rằng, loại đồng đen này có thể trừ tà ma, chữa bệnh, ai bị trúng gió dùng áp vào trán có thể khỏi. Vốn là người yêu thích đồ cổ, trong dân gian ông cũng đã nghe huyền thoại về đồng đen, nhưng để tận mắt thấy, tay sờ thì chưa. Nghe nhóm người nói vậy ông Hải mừng rỡ trong lòng. Ông nóng lòng muốn về mua ngay.
 Về Thái Bình, ông Hải đem theo số tiền lớn, với ý nghĩ sẽ mua cổ vật với bất cứ giá nào. "Bọn chúng dẫn tôi đến một gia đình có một cụ già chừng 70 tuổi. Thấy tôi đến gia chủ mời nước tiếp tôi. Ông ta nói rằng cha ông để lại một số đồ cổ, trong đó có một số đồ đồng đen như đĩa, bát hương thờ. Gia đình có việc cần tiền gấp nên phải bán đi", ông Hải kể. Nghe gia chủ nói vậy, ông Hải không chút nghi ngờ. Xem các đồ đồng đen với màu sắc, hoa văn cổ ông hoàn toàn tin tưởng. Nhưng khi ông vừa thanh toán tiền cho chủ nhà thì đã bị lực lượng công an ập vào, tịch thu toàn bộ tiền và tang vật. 
 Sau này ông mới biết mình đã bị những kẻ chuyên lừa đảo bịp bợm. Bọn chúng đã thuê một ông già đóng vai chủ nhà, một số đồ cổ làm mồi. Hôm đó khi công an ập vào thì bọn chúng đã tháo chạy, ông Hải bị lừa mất số tiền lớn.

Chiếc ấm đầu gà của ông Hùng có giá nghìn đô la Mỹ. 
Đồng đen dễ bị làm giả
 Nghệ nhân Nguyễn Văn Dũng (81 tuổi ở phố Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, Hà Nội) có 60 năm đúc đồng cho biết: "Nói về đồng đen thì Ấn Độ, Trung Quốc là cái nôi sản sinh ra nhiều bức tượng đồng đen lớn nhất thế giới. Đồng đen là một hợp kim, có chứa chất phóng xạ. Nhiều người vẫn đồn đại rằng giá trị của nó còn như bố, mẹ của vàng. Nhưng thực ra nó là giá trị ảo. Hơn nữa, để xác định được đồng đen thật rất khó, đến người làm nghề cũng có thể bị lừa".Cụ Dũng đúc hàng nghìn bức tượng đồng, nhưng cụ cũng chưa biết cụ thể hợp chất tạo nên đồng đen là gì. Xưa nay cụ chỉ biết bức tượng thờ ông Trấn Vũ trong đền Quán Thánh là tượng đồng đen. Còn cũng chỉ nghe dân gian truyền tụng. Cụ Dũng bảo, làm giả đồng đen không khó. Để làm một đồ vật nào như đồng đen thật, chỉ cần đúc đồng xong, pha chế nước mạ bên ngoài sao cho thật tinh xảo, những người sành chơi đồ cổ cũng khó phát hiện là đồ giả.
 TS Vũ Thế Khanh, Giám đốc Liên hiệp  Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng (UIA) cho hay, ông không biết những lời đồn thổi, lừa bịp về đồng đen như thế nào, nhưng thực tế hiện nay bức tượng Trấn Vũ là đồng đen. Ông cho rằng, tượng đồng đen có thể chữa được một số bệnh như cảm gió, thương hàn. Để xác định đồng đen rất khó, nhưng theo kinh nghiệm của ông thì có thể thử bằng cách mài đồ đồng xuống nền xi măng hoặc lấy dao cắt nếu vết cắt đó đen trở lại thì là đồng đen.

Cụ Dũng cho biết, có thể mạ tượng đồng bình thường thành đồng đen. 
Đồng đen không còn công thức để đúc?
 Ông Vũ Tá Hùng (62 tuổi ở số 134 phố Tân Ấp, quận Ba Đình, Hà Nội) cho biết: "Tôi có hơn 40 năm kinh nghiệm chơi đồ cổ, dù được nghe nói nhiều về đồng đen nhưng thực sự để cầm một đồ vật bằng đồng đen thì chưa".
 Trước đây, ông Hùng lang thang khắp nơi để đi tìm thứ đồ cổ này, thậm chí hao tiền, tốn của truy tìm nhưng bất thành. Hơn 10 năm trước ông được nghe anh bạn giới thiệu ở huyện Thường Xuân, Thanh Hóa người dân đi làm nương đào được đồng đen. Anh tức tốc lên đường vào tận nơi để mua. Để xem bức tượng đó anh phải trả cho gia chủ 10 triệu đồng. Nhưng khi xem xong bức tượng, anh thất vọng ra về vì nó là dạng đồng cổ chứ không phải đồng đen.
 Ông Hùng cho hay, có lẽ đồng đen đắt giá vì nó hiếm, công thức chế tác và khuôn mẫu đúc đồng đen đã mất từ xưa. Chất để chế tác đồng đen là hợp kim rất quý, chịu được nhiệt rất tốt. 
 Trong kho đồ cổ của mình, ông Hùng thích nhất là chiếc ấm đầu gà cổ của Trung Quốc khoảng 3.000 nghìn năm tuổi. Ông Hùng bảo, chiếc ấm này có thể là dạng đồng đen. Nó được đúc bằng đồng với kỹ thuật tinh xảo, hơ lửa đốt vào chiếc ấm, đồng sẽ đỏ một thời gian, sau đó lại đen trở lại. Cách đây vài năm, có đại gia đến ngả giá vài trăm nghìn đô la Mỹ nhưng ông Hùng không bán.

"Theo các câu chuyện mà nhiều người kể về sự huyền bí của đồng đen, tôi đã đi săn lùng rất nhiều nơi. Tôi đi sang cả Ấn Độ, Trung Quốc để tìm hiểu, nhưng vẫn không tìm được bức tượng nào là đồng đen thật. Đồng đen hiện nay chỉ là những câu chuyện kể trong dân gian".

Ông Vũ Tá Hùng 
  

Bài viết: Giải mã giá trị thật của đồng đen Nguồn Zing Blog



Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

BÍ ẨN TRẦM HƯƠNG - ST Hoàng Hải Vân


Bài 1 : VÀI DÒNG LỊCH SỬ.

(Ông Nguyễn Phúc Ưng Viên)Trên thế giới, giá bán cao nhất 1 kg trầm hương có thể lên tới 160 triệu đồng, còn giá 1 kg kỳ nam thì lên đến mức hoang tưởng: 7 tỉ đồng. Sự kỳ dị đó của giá cả, cộng với sự thiếu trách nhiệm trong quản lý tài nguyên thiên nhiên đã khiến cho trầm hương vốn không bao giờ thiếu trên rừng núi chúng ta suốt hơn 4.000 năm qua, đã gần như bị tuyệt chủng chỉ trong vòng 35 năm. So với giá cả trên mây xanh thì những tri thức về trầm hương vẫn còn dưới mặt đất. Người ta biết quá ít về nó. Tri thức về trầm hương nghèo nàn đến mức sách vở chỉ trích qua trích lại 2 tài liệu, xưa nhất là của Lê Quý Đôn (Phủ biên tạp lục), gần nhất là của Đỗ Tất Lợi. Còn tài liệu khoa học trên thế giới thì chủ yếu nói về đặc tính của cây dó, liệt kê các hoạt chất và một số dược lý của trầm, chưa ai nói được cặn kẽ trầm được hình thành như thế nào, có những giá trị độc đáo gì mà giá của nó mắc đến như vậy.“Trong đau thương dó biến thành trầm”, tôi từng đọc ở đâu đó câu thơ này, nó khiến ta suy tư về lẽ sinh tồn của đời người. Trầm đã hình thành đúng như thế. Khi nào thân cây dó bị một vết thương (do va đập, do bị côn trùng đục, bị bom đạn...), xung quanh vết thương đó lâu ngày biến thành trầm. Vì hiểu được “nguyên lý” này nên ngày nay người ta có thể làm trầm “nhân tạo”, tức là trồng cây dó rồi tạo ra vết thương, cấy hóa chất vào để gây tác động cho ra trầm. Đến nay, nhiều người đã trồng dó và đã lấy được trầm theo phương pháp trên, tuy trầm nhân tạo có mùi thơm của trầm nhưng giá trị như thế nào thì vẫn còn mù mờ.Thực ra, tôi không quan tâm mấy đến trầm hương, ngoài sự liên tưởng về cái “đau thương” nói trên. Cho đến khi tôi gặp được một kỳ nhân dụng trầm tôi mới hiểu sự “đau thương” đó có quá nhiều bí ẩn.Đó là ông Nguyễn Phúc Ưng Viên. Là cháu nội hoàng tử thứ 12 con vua Minh Mệnh, ông Ưng Viên gọi vua Minh Mệnh bằng ông cố. Theo “đế hệ thi” của vua Minh Mệnh thì hàng “Ưng” ngang với vua Hàm Nghi và là hàng ông nội của vua Bảo Đại. Hàng “Ưng” nay chỉ còn vỏn vẹn 3 vị: ông Ưng Linh hiện ở Đà Nẵng gần 90 tuổi, ông Ưng Ân ở Huế gần 80, ông Ưng Viên trẻ nhất, mới xấp xỉ 70. Giải thích về thứ bậc và tuổi tác của mình trong dòng họ, ông bảo: “Tôi thuộc dòng thứ”.Ông Ưng Viên sống ở TP.HCM như một ẩn sĩ âm thầm chữa bệnh cứu người. Từng có thời gian tiếp cận khá sâu vào ngành y của người Mỹ, nhưng ông không theo nghề bác sĩ mà chuyên tâm ứng dụng thuốc nam - xin lưu ý là thuốc nam chứ không phải thuốc bắc. Cả nhà ông không bao giờ sử dụng thuốc tây, kể cả đối với những vật nuôi như con heo con gà. Ông bảo dân tộc Việt từ một nhóm nhỏ mấy ngàn người, đã dựa vào thiên nhiên mà sống, mà sinh sôi phát triển mà mở rộng bờ cõi, đến nay đã lên tới hơn 80 triệu người, dân tộc đó ắt phải biết cách phòng và chữa bệnh bằng chính những gì mình có. Thuốc tây mới du nhập vào khoảng 150 năm nay thôi. Thế giới có biết bao nhiêu là trận dịch chết người hàng loạt, còn trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Việt Nam có một trận dịch nào khiến nhiều người chết không? Chết hàng loạt vì đói thì có, còn chết hàng loạt vì dịch thì không.
Cây trầm ở độ cao 1.500m trong dãy Yang Sin (Buôn Ma Thuột) trên 100 năm tuổi, mật độ nhiễm trầm 80% được ông Ưng Viên tạc thành tượng Phật. Tượng cao 2,82m, chu vi đế 3m - Ảnh: Ưng ViênÔng cũng không coi trọng thuốc bắc bằng thuốc nam. Ông bảo từ ngàn năm trước người Việt hằng năm phải cống nạp các thầy thuốc giỏi cho Trung Quốc. “Dòng họ tôi, chỉ riêng thời nhà Đinh đã phải cống nạp đến 18 thầy thuốc giỏi sang Tàu”, ông nói.La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã từng nhắc vua Quang Trung rằng nước Nam ta sẽ còn phụ thuộc vào Trung Quốc chừng nào vẫn còn phụ thuộc vào thuốc bắc.Tổ chức Y tế thế giới ngày nay cũng khuyến nghị loài người nên áp dụng những thức ăn - dược liệu hữu ích của các dân tộc có lịch sử lâu đời để chăm sóc sức khỏe. Việc sử dụng tảo Spirulina từ châu Phi cho cả thế giới là một minh chứng.Tôi phải giới thiệu sơ qua một chút “lý lịch” của ông Ưng Viên, không phải để nhấn mạnh cái gốc hoàng tộc của con người này,  mà vì nó liên quan đến tư cách “dụng trầm” và y thuật của ông. Mọi người đều biết, Lê Quý Đôn ở Đàng Ngoài, mà trầm thì xuất từ Trung Bộ, nên dù là một nhà bác học nhưng Lê Quý Đôn chỉ có thể khảo sát qua tư liệu cổ và hỏi thêm một số người khai thác trầm để viết sách, ông không thể có cơ hội trải nghiệm với trầm. Còn nhà Nguyễn, chính là gia tộc dụng trầm số 1, tính từ Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên) trở đi.Có những cuộc tương ngộ làm nên lịch sử. Riêng cuộc tương ngộ giữa Nguyễn Hoàng và Nguyễn Bỉnh Khiêm thì làm nên một cuộc xoay trời chuyển đất. Đọc sử sách ta chỉ biết đến lời khuyên nổi tiếng “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với Nguyễn Hoàng, nghe lời khuyên đó mà họ Nguyễn được bảo toàn để cho Việt Nam có thêm một nửa giang sơn gấm vóc. Nhưng không lẽ Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ giúp cho Chúa Tiên một lời khuyên thôi sao? Sử sách không ghi thêm điều gì nữa. Sử sách cũng chỉ cho biết Nguyễn Bỉnh Khiêm là ông Trạng Trình tinh thông dịch số, là nhà nho yêu nước thương dân, là một ẩn sĩ “thu ăn măng trúc đông ăn giá”, là một nhà tiên tri. Chỉ là nhà tiên tri sao có thể khiến được cả ba nhà Mạc, Trịnh, Nguyễn đều đến xin tham vấn trong những thời điểm ngặt nghèo? Nhà tiên tri, dù nổi tiếng đến đâu cũng chỉ có thể thuyết phục được người thường, đâu có thể khiến nổi các bậc đế vương đem sự nghiệp tiền đồ của mình mà gửi gắm. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn là sự bí ẩn của lịch sử.Cho đến một buổi trưa ông Ưng Viên đãi tôi ăn món thịt dê do chính ông nấu. Tôi chưa bao giờ được ăn món thịt dê ngon như vậy. Nó ngon dĩ nhiên là do sự thiện nghệ của người nấu, nhưng nó còn ngon hơn vì câu chuyện được nghe. Ông Ưng Viên nói một trong những thứ mà Chúa Tiên mang vào Nam là những đàn dê, việc này do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đề nghị. Dê là con vật độc đáo, không những có giá trị y thực phục vụ sức khỏe cho dân chúng, mà còn rất tiện ích cho hậu cần quân sự. Dê dễ nuôi, có thể dẫn các đàn dê theo quân, khi có chiến sự chúng ở đâu nằm im ở đó không chạy nhặng xị như trâu bò gà vịt, lại dễ phân phối trong quân, một con dê có thể phục vụ gọn bữa ăn cho một “tiểu đội”. Cha ông của ông Ưng Viên dặn dò con cháu ngoài việc nhớ ơn và thờ phụng tổ tiên mình, còn phải nhớ ơn và thờ phụng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đề xuất với Chúa Nguyễn từ chiến lược chiến thuật, từ chuyện quân cơ, hậu cần cho đến những chuyện cụ thể liên quan đến bảo vệ sức khỏe cho quân dân như món ăn, bài thuốc để làm hành trang Nam tiến. Trong đó có chuyện “dụng trầm”.Nhà Nguyễn để lại nhiều di sản, có thứ để lại cho lịch sử, có thứ chỉ để lại cho con cháu. Những ai nói công thức rượu Minh Mệnh đã bị thất truyền là nhầm to. Hoàng tử Vĩnh Giu con vua Thành Thái, thuộc  hàng cháu nội ông Ưng Viên, lúc khốn khó đã bỏ rượu cho các nhà hàng để sinh sống, đó là rượu Minh Mệnh chính hiệu. Ông Ưng Viên cho hay ông Vĩnh Giu có giữ bí quyết làm men nhưng không biết làm rượu, chính ông đã làm rượu giúp cho ông Vĩnh Giu. Rượu cung đình nhà Nguyễn có tới 175 dòng men, hơn 3.000 loại rượu. Ông Vĩnh Giu lưu giữ được 30% dòng men, ông Ưng Viên giữ được 70%. Chỉ riêng hai ông gộp lại cũng đã đủ 175 dòng, không có dòng men nào thất truyền cả, chỉ có điều là chúng không được truyền ra ngoài.Còn việc dụng trầm thì kế thừa tri thức của tiền nhân do Nguyễn Bỉnh Khiêm truyền lại, nhà Nguyễn đã có gần 400 năm ứng dụng trầm hương trong y học và đời sống, kể cả phục vụ quốc phòng, rồi hoàn thiện pho y lý về trầm hương, đồng thời có chính sách hữu hiệu bảo vệ triệt để nguồn tài nguyên trân quý ấy. Ông Ưng Viên kế thừa đủ di sản dụng trầm của dòng họ, do ông nội ông truyền lại, những bí quyết đó cũng không truyền ra ngoài. 
Bài 2: " THIÊN THỌ ĐỊA CHI KHÍ..."Hương trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát ra hơn 170 mùi thơm có thể phân biệt được. Dùng một dụng cụ xông hương, cho vào một loại trầm thông thường, trong 24 giờ sẽ có 8 đợt phát hương, mỗi đợt là một phức hợp mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau…

Trầm hương sinh ra từ cây dó (cá biệt cây xương rồng cũng có thể cho ra trầm). Trong thiên nhiên có nhiều loài dó, nhưng theo ông Ưng Viên thì chỉ có cây dó bầu mới cho ra thứ trầm có thể chữa bệnh được.
Trên thế giới, trầm tập trung chủ yếu ở 6 nước: Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar, Indonesia, Malaysia, trong đó trầm Việt Nam có dược lý tốt nhất, những nghiên cứu khoa học mới đây về trầm của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc cũng xác nhận trầm Việt Nam có nhiều hoạt chất mà trầm các nơi khác không có.
Tại Việt Nam, trầm tốt nhất tập trung ở vùng Phú Yên, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Ninh Thuận, đây chính là “quê hương” của trầm, loài người phát hiện ra trầm khởi thủy là từ vùng này. Trước đây, từ Việt Nam, trầm được dùng làm cống phẩm đưa sang Trung Quốc. Trong các cống phẩm, trầm hương là thứ quý nhất. Tất nhiên các thầy thuốc giỏi nhất được cống theo để “hướng dẫn cách sử dụng”. Và từ đây, trầm hương đã theo con đường tơ lụa sang Trung Cận Đông, Địa Trung Hải...
“Thọ thiên địa chi khí, tẩy vũ trụ chi trược, giáng khí trừ đàm, thiện trị phế phủ, chỉ tả bổ dương, thị là thế thượng trân chi giả...”, đó là đoạn tóm tắt y lý của trầm hương trích trong sách gia truyền của cung đình nhà Nguyễn mà ông Ưng Viên đọc cho tôi nghe, tạm dịch: “Tích tụ khí thiêng của trời đất, tẩy trừ mọi thứ ô uế trong không gian, có tác dụng giáng khí trừ đàm, chữa các bệnh thuộc phế phủ, chữa các bệnh về tiêu hóa, bài tiết, thận và tim mạch (chỉ tả bổ dương - nghĩa rộng), chính là thứ trân quý nhất”.
Trầm có thể được sử dụng trong cả ngàn bài thuốc khác nhau, nhưng trước hết hãy nói về “thọ thiên địa chi khí”.
Ai cũng biết không phải cây dó bầu nào cũng có thể sinh ra trầm. Trong rừng tự nhiên từ 1.000 đến 1.500 cây mới có một cây có trầm và từ 10.000 đến 20.000 cây có trầm mới có một cây có kỳ nam.
Khi cây dó bị một vết thương, vết thương đó phải đọng nước qua một mùa mưa, cây dó mới bắt đầu tiết ra chất nhựa xung quanh vết thương để tự vệ. Người ta thấy nhiều cây dó cho trầm chi chít những mắt trên thân cây, những mắt chi chít đó là vết tích do một loài côn trùng đục vào thân cây, dân gian gọi nó là con bọ xòe.
Khi chất nhựa dần dần trở nên đậm đặc, lúc ấy những con kiến sẽ bò vào ăn chất nhựa này. Đó là một loài kiến cao cẳng, màu vàng hoặc màu đen.
Chính những con kiến kia mang theo các phân tử trầm hương (một loài nấm) vào “cấy” trong lớp nhựa. Loài nấm này tương tác với các hoạt chất của lớp nhựa, dưới tác động của khí hậu bên ngoài và sự tương tác diễn ra trong một thời gian rất dài mới sinh ra trầm, tương tác càng lâu trầm càng có giá trị. Thông thường, cây dó phải có tuổi thọ hơn 50 năm mới có thể cho ra một thứ trầm có giá trị chữa bệnh.
Về giống “kiến cao cẳng” mang phân tử trầm vào cây dó, ông Ưng Viên lưu ý không phải kiến cao cẳng nào cũng làm được điều này. Phải theo dõi rất nhiều năm mới phát hiện ra, chúng không bao giờ làm tổ trên những cây trầm. Đây là giống kiến rất quý về dược liệu, trứng của nó rang lên có thể chữa được chứng méo miệng, cấm khẩu (liệt dây thần kinh số 7, số 21). Trứng của giống kiến này không thiếu trong kho tàng dược liệu của ông Ưng Viên.
Tôi hỏi xin ông một tấm hình về những con kiến đó, ông lắc đầu từ chối: “Tuyệt đối không nên đăng ảnh của nó lên trên báo, đăng lên là nó bị người ta tận diệt ngay. Người của tôi đi lấy trứng kiến, mỗi lần lấy không bao giờ quá 1/3 tổ trứng. Lấy tới 1/2 là nó tuyệt chủng rồi”. Ông Viên còn mô tả những đặc tính của loài kiến trên nhưng tôi không dám ghi ra đây vì cũng sợ chúng sẽ bị... tuyệt chủng.
Quá trình hình thành trầm hương theo một “cơ chế” tưởng chừng đơn giản như vậy nhưng thật ra là vô cùng kỳ bí. Cho nên người xưa nói “thọ thiên địa chi khí” là đúng nhất. Con người đã khẳng định hương trầm là “vua của các mùi hương”. Hàng ngàn năm nay trầm được xông trong các cung điện vua chúa, tại các lễ nghi thiêng liêng của các tôn giáo. Nó là “danh hương” trong các nghi lễ tôn giáo.
Trong thiên nhiên có rất nhiều thực vật có tinh dầu phát hương ra không gian, nhưng chỉ có trầm là thứ mà nguồn phát ra hương không bao giờ cạn, từ lúc trong rừng núi cho đến khi đem ra chế tác, lưu giữ. Người ta phát hiện các mảnh trầm nằm dưới đáy các giếng cổ Chămpa, qua hàng ngàn năm mà khi lấy lên hương thơm vẫn còn nguyên vẹn. Ngày nay trầm còn được dùng làm chất định hương cho mỹ phẩm, nước hoa Chanel No.5 và các thứ nước hoa nổi tiếng khác trên thế giới không thể không có trầm hương.
Hương trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát ra hơn 170 mùi thơm có thể phân biệt được (riêng kỳ nam có ít mùi hơn và không có vị ngọt). Dùng một dụng cụ xông hương, cho vào một loại trầm thông thường, trong 24 giờ sẽ có 8 đợt phát hương, mỗi đợt là một phức hợp mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau, thay đổi theo thời gian, khi thì mùi hoa sen, khi thì mùi hoa hồng, khi thì vani, khi thì mùi gỗ thông, khi thì mùi xạ hương... Điều lạ lùng nữa là trong những thời điểm giống nhau mà tại địa điểm khác nhau mùi trầm hương cũng thay đổi.
Điều này khoa học chưa đủ khả năng giải thích. Một nhóm nhà khoa học Nhật Bản đã thử làm khảo cứu phân biệt hương thơm của một số sesquiterpen carboxylic acid trong tinh dầu trầm và nhận thấy có khi chỉ vì vị trí của một dấu nối đôi như hai chất selina-3,11 và selina-4,11 dienal mà mùi hương rất khác nhau, chất thứ nhất có mùi gỗ, mùi hoa hòa với mùi khói, chất kia phảng phất hương bạc hà.
Bốn chất đồng phân neopetasan, epineopetasan, dihydro karanon, ngoài vị trí các dấu nối đôi, còn khác nhau ở hướng các nhóm methyl cũng cho ra các mùi khác nhau (dẫn theo tiến sĩ Võ Quang Yến, Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Đà Nẵng 2008). Khoa học chỉ mới biết tới đó, còn vì sao lại có sự “biến tấu” như vậy thì khoa học đành chịu, ở đây vẫn là quá trình “thọ thiên địa chi khí”. (còn tiếp)
Trích dẫn
Ông Ưng Viên còn lưu ý: Trầm hương và kỳ nam là khác nhau, không phải kỳ là cái lõi của trầm. Một cây dó có trầm dù lâu năm đến bao nhiêu cũng không nhất thiết có kỳ nam, ngược lại một cây dó có kỳ nam không nhất thiết có trầm bên cạnh. Chúng được tương tác bởi hai loài nấm khác nhau. Kỳ nam hiếm hơn nên mắc tiền hơn, nó quá mắc tiền vì từ lâu nó được con người sở hữu như một “linh vật”, nhưng giá trị chữa bệnh và ứng dụng trong đời sống của kỳ nam thì không bằng trầm.
x

NGẬM NGẢI TÌM TRẦM. - ST _


Tác giả: Thanh Tịnh.



Hôm ấy chúng tôi vào phía rừng Kim Vân gần chân núi Trời để đo mấy khoảnh ruộng tranh mới vỡ. Ðường đi gồ ghề và hóc hiểm lắm đoạn phải lội qua suối nước lên quá lưng quần.
Chúng tôi đi một dây dài cho có vẻ nhiều và mạnh. Thật ra đường cũng hẹp, không thể đi hàng hai được. Ði trước là người mang hòm máy rồi đến người xách mấy mo cơm nắm và thức ăn. Tôi đi giữa, phía sau tôi là hai người cầm "ra lông" và "mia". Tôi chỉ cầm bản đồ để dò đường nên phải đưa mắt nhìn quanh mãi. Vào giữa trưa, chúng tôi đến đầu địa phận làng Thanh Mỹ. Trời về tiết hạ nhưng may cũng chưa nắng gắt. Có lẽ vì nhờ hơi đá bốc lên cao và khói sương ủ xuống nặng. Trời tuy nắng nhưng thời tiết có vẻ dễ chịu. Qua khỏi đồi thông, am Sơn Thần, trước mắt chúng tôi hòn núi Truồi dựng lên sừng sững, oai nghiêm như một vị linh thần. Sườn núi từ trên cao chạy xuống từng đường trắng, rồi tỏa rộng bốn bề trông như những ngọn thác lùa đá ùn thành đồi.
Chúng tôi đang loay hoay tìm chỗ ngồi ăn trưa thì may gặp một nền nhà cũ bỏ hoang khá bằng phẳng.
Chung quanh nền nhà có mấy thanh sắt dựng lên thật cao. Bên tay trái có mấy sợi dây thép dằng qua lại giữa hai cây sắt đã dỉ cùn đầu. Cây bìm bìm tha hồ thả dây leo và đang kết thành một hàng rào lá chạm lọng khá dày. Quái lạ, một hàng rào sắt bao quanh một nền nhà đất sét! Thật là một chuyện lạ ra ngoài tưởng tượng. Hay đây là bãi chiến trường xưa...?
Tôi đang phân vân muốn biết chuyện hàng rào sắt thì một bà lão thấy chúng tôi ngồi ăn, liền đến đứng xem. Và cũng nhờ bà ta, chúng tôi mới biết câu chuyện sau đây:
"Xóm Bình Lư hồi ấy có độ trên mười nóc nhà. Xóm ấy thuộc về làng Thanh Mỹ thượng. Họ chuyên nghề vào rừng đốn củi hay đi săn. Cách sinh kế của lớp người này rất đơn giản. Rừng núi đã chu cấp cho họ gần hết vật liệu họ cần dùng. Thiếu gạo đã có ruộng rừng, họ ra công cày cấy lấy. Ðồ ăn phần nhiều là thịt hươu nai ướp muối hay ép thật khô. Thỉnh thoảng họ mới xuống chợ bán củi để mua ít thức cần, phần nhiều là vải, muối hay diêm. Ðời họ ở xa cách thành thị, có tiền nhiều họ cũng không biết sắm thêm gì và không vượt ra khỏi cơm ngày hai bữa. Hy vọng của họ cạn và gần, và nhờ thế rất dễ được mãn nguyện
Trong xóm ấy có hai vợ chồng bác Diệm nhà nghèo nhưng ở với làng nước rất thảo. Bác gái là người làng Ngô Xá ở Quảng Trị. Lấy nhau sáu năm bác gái sinh được một trai và một gái. Thấy trong nhà nhiều miệng ăn, muốn cho vợ con được no ấm, bác trai liền nghĩ cách vào núi tìm trầm. Nhưng tìm trầm rất khó, không phải đôi ba ngày mà tìm ra được. Có khi phải đi đến hàng tuần hàng tháng. Rồi kết quả lắm lúc cũng chẳng ra gì. Ðó là chưa nói phải vào tận trong núi xanh và vượt qua nhiều cánh rừng nguy hiểm. Muốn tránh tai họa, người đi tìm trầm phải ngậm ngải. Theo lắm người kể chuyện, ngải là một thứ củ cây do người Mọi ở Trường Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây ngải trong lò mật ong một tháng, để giữa dòng suối chảy một trăm ngày. Ðoạn phải đặt trong tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực năm bà già trong đời giữ vẹn tiết trinh. Vẫn chưa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để lừa cho hổ ăn. Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Ðoạn phải bẫy cho được con hổ ấy, rồi giết ngay và lấy ngải ra.
Ngải lúc ấy là một cái bùa thiêng có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì không ăn không uống cũng sống được. Và thú dữ dù đi sát bên cạnh cũng không thấy mình được. Nhưng hạn trong ba tháng mười ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì người ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ thật.
Chuyện ngậm ngải tìm trầm, thổ dân ở các dải núi miền Trung cho là rất thường. Cái mỉm cười ngờ vực đối với câu chuyện họ nói về sức phi thường của ngải sẽ quyến được cái quắc mắt giận dỗi hay cái trề môi ngạo nghễ của họ ngay vì họ quá tin đến dám xem thường tất cả người nào không chịu tin như họ, nghĩa là không hiểu rõ sức uy hùng bí mật của rừng thẳm núi cao.
Bác Diệm trai vào rừng đã gần ba tháng nhưng vẫn chưa thấy ra. Bác gái ngày nào cũng nhìn vào núi Truồi để chờ tin tức. Có lẽ chỉ lần này bác trai mới vào rừng lâu nhất. Mấy lần trước bác chỉ đi trong một vài tháng là nhiều. Bác gái ngày đêm lo sợ nhưng cũng không biết làm sao được. Bác liền đi hỏi thăm mấy nhà hàng xóm. Có người an ủi lấy cớ bác Diệm rất thông minh, thế nào bác cũng nhớ về nhà đúng kỳ hạn. Lắm người bông đùa một cách quái ác, là nói bác đã vào tận Bình Ðịnh, Quy Nhơn, rồi lấy vợ bé trong ấy rồi. Bác Diệm gái vẫn trông mong chồng và đêm nào cũng ra phía sau nhà nhìn về phía dãy Trường Sơn bát ngát. Nhưng dải núi thì cao và hùng vĩ quá, không thể đem lại sự yên lành trong tâm hồn chất phác của cô gái quê được.
Ba tháng mười ngày đã qua từ lâu. Bác Diệm gái lại càng lo sợ hơn nữa. Ðêm nào bác cũng ra đứng giữa sân thẫn thờ nhìn về dãy núi, rồi đến đêm khuya bác với trở vào nhà ngồi khóc rấm rứt.
Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi, rất nặng nề trong lòng người mong đợi. Rồi giữa một đêm trăng mờ cuối thu, Bác Diệm gái bỗng nghe tiếng rú xa xa, đứt quãng rồi kéo dài rất ảo não. Bác Diệm tung chiếu chạy ra sau nhà, tim đập mạnh và tay chân run lập cập.
Phía xa trên một đồi nhỏ, lọt trong rặng thông lơ thơ, một bóng người đang nhìn về xóm Bình Lư đã từ lâu im lìm trong đêm vắng. Tuy chưa nhận rõ là ai, linh tính đã báo cho bác biết đó là chồng bác, bác Diệm trai. Rồi không suy tính, bác đâm đầu chạy ra, lòng mừng khấp khởi. Nhưng mới chạy được một quãng ngắn, bác đã lạnh người đứng dừng lại. Một tiếng rú nghe lạnh và uất như một người câm cố thét lên để nói được tiếng của loài người.
Tuy sợ nhưng lòng bác Diệm gái thương chồng mạnh hơn. Bác gắng sức chạy đến chân đồi, cái bóng đen liền chờn vờn đi lại phía bác, hai tay thả lỏng, đầu gật gù lưng cúi lom khom. ánh trăng thu giây bụi vàng nhạt trên mớ tóc dài đen nháy của con người kỳ dị lại làm bác gái giật mình, muốn đứng lại ngay. Giữa lúc ấy bác nhận thấy một manh áo nâu đã rách tươm còn vướng trên cổ người ấy... Thôi rồi! Chồng bác đã gần hóa hổ, bác run sợ và bồi hồi... Nhưng bác cũng cố đứng nhìn và đợi. Cái bóng đen vừa tiến đến vừa rên hừ hừ, như bị ngạt trong cổ. Lúc thoáng thấy cặp mắt chồng đã tròn xoe và hoe sáng như lửa, cằm đã mọc râu dài và thưa, bác Diệm gái liền đi thụt lùi rất gấp. Nhưng bác vấp phải một cành cây nằm ngang ở phía sau. Bác thét lên một tiếng rồi ngã nhào, chết ngất.
Sáng hôm sau, lúc bừng mắt tỉnh dậy, bác Diệm gái thấy mình đang nằm trên giường nhà. Hỏi mấy người đến thăm, bác mới biết tiếng rú đêm qua, dân xóm đều nghe rõ ràng cả. Họ cũng lần ra phía đồi để xem thì gặp lúc bác nằm chết ngất trên cành cây khô. Mấy người khiêng bác về nhà. Còn những người bạo dạn thì lấy roi hèo đánh đuổi con người quái lạ kia đi. Nghe đến đấy bác Diệm gái mở lớn đôi mắt, băn khoăn hỏi:
- Dân xóm có đánh người ấy à?
Một ông lão đáp:
- Không, chỉ doạ thôi. Thật ra cũng không ai dám đến gần hắn.
Bác gái nói thầm như để một mình nghe:
- Chồng tôi đó!
Nói xong bác ứa nước mắt thở dài một cách ngao ngán.
Luôn mấy đêm sau, bác Diệm gái ra sau nhà đứng nhìn về phía mấy ngọn đồi nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng chồng đâu nữa. Bác lại trở vào nhà âm thầm nằm đợi nghe tiếng rú.
Qua tháng sau, một buổi chiều, bác xuống chợ Truồi mua gạo thì bác trai mon men vào nhà. Bác đem theo một buồng chuối hoang và mấy trái cam dại. Hai đứa con mới nhận thấy bác đã khóc vang lên. Bác lo sợ cúi gầm đầu xuống và đưa cam chuối cho chúng ăn. Chúng thấy người ấy không làm gì hại và còn cho ăn tử tế thì ngồi yên lặng ngay.
Bác Diệm trai muốn vuốt ve con, nhưng tay bác sờ đến đâu, áo quần của hai đứa nhỏ rách toang đến đấy. Thì ra móng tay bác đã sắc và nhọn lắm rồi.
Thừa lúc đứa con trai quay mặt nhìn ra sân bác Diệm liền thè lưỡi liếm đầu nó. Bác muốn tỏ vẻ yêu mến con, lòng bác còn là lòng người, nhưng chao ôi, cử chỉ của bác đã nhuộm đầy vẻ thú. Lưỡi bác đã rám và sắc hơn dao rồi. Chỉ đưa đi đưa lại mấy cái, tóc đứa con đã rụng tua tủa. Hai đứa con sợ quá, liền bỏ chạy ra sân la lớn. Cũng ngay lúc ấy bác Diệm gái đi chợ về. Thấy chồng lông đầy người và mầu lông đã hơi vàng, hai tay trước thòng gần chấm đất và nanh trắng nhe ra ngoài môi, bác Diệm gái cũng hoảng hốt la tiếp.
Nghe tiếng ồn ào, dân quanh xóm liền chạy đến và đuổi con vật nửa người nửa thú chạy bán sống bán chết vào rừng. Muốn che chở người cô quả, dân xóm Bình Lư xuống xin mấy người làm đường xe lửa ở gần ga Truồi một chục thanh sắt và mấy sải dây thép về làm một cái hàng rào vây quanh nhà bác Diệm gái. Từ đó bác Diệm trai không dám bén chân về nhà nữa.
Nhưng qua mùa xuân sau, cũng một đêm trăng mờ như bảy tháng trước, bác Diệm gái lại nghe tiếng rú kinh hồn trên đồi thông vắng. Bác liền vội vã chạy ra sau nhà. Trong bầu ánh sáng nhạt, nhuộm sương khuya, bác Diệm thấy một bóng người - không, một con vật thì đúng hơn - chụm mạnh bốn chân xuống đất, ngẩng đầu lên cao, đang đăm đăm nhìn về phía bác. Thôi thế là hết! Chồng bác đã hoàn toàn hóa hổ... Bác ôm mặt khóc rất thê thảm. Con hổ cũng rú lên một hơi dài như để đáp lại tiếng lòng của vợ. Tiếng rú nghe lạnh và buồn.
Ðoạn con vật quay mình lẳng lặng đi vào phía núi Truồi, rồi biến dần trong ánh trăng xanh nhạt.
Dãy núi Truồi từ đó đã như một bức thành kiên cố chia đôi tình nhân loại với cảnh huyền bí của sơn lâm.